Mr.Phieudu236 Administrator
Bài viết : 1101 Điểm : 2664 Voted : 164 Gia nhập : 22/02/2011 Age : 34 Đến từ : C:\WINDOWS\System32 Thành tích :
| Tiêu đề: LuẬn vĂn thẠc sỸ: Nghiên cỨu chiẾn lƯỢc kinh doanh cỦa công ty cỔ phẦn giỐng cây trỒng bẮc ninh Sun Jun 19, 2011 4:30 pm | |
| Luận văn dài 80 trang: 1. MỞ ĐẦU 1.1 Tính cấp thiết của đề tài Hộ nông dân là chủ thể quan trọng trong nền kinh tế quốc dân nói chung và nền nông nghiệp nói riêng. Kể từ khi công cuộc đổi mới nông nghiệp được tiến hành một cách toàn diện vào năm 1988, ruộng đất được giao cho các hộ nông dân canh tác ổn định lâu dài, công việc sản xuất kinh doanh hoàn toàn do các hộ tự chịu trách nhiệm, kinh tế hộ trở thành đơn vị kinh tế tự chủ. Trong những năm qua bên cạnh những thành quả đã đạt được, phát triển kinh tế hộ nông dân ở nước ta còn gặp không ít những khó khăn, đặc biệt là trong quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế. Nền kinh tế quốc dân nói chung và kinh tế hộ nói riêng được đón nhận nhiều cơ hội cho phát triển nhưng cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Vì vậy, để nắm bắt được những cơ hội, hạn chế những khó khăn thách thức thì việc sử dụng tối ưu và có hiệu quả nhất các nguồn lực sản xuất chủ yếu cho phát triển kinh tế hộ nông dân như: nguồn lực đất đai, lao động, vốn,... các nguồn lực bên ngoài như chính sách, thị trường có ý nghĩa thực tiễn và đang trở nên hết sức bức thiết. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu đưa ra những giải pháp nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân. Các công trình khoa học và những tác phẩm đã công bố đi sâu nghiên cứu những vấn đề chung về kinh tế hộ nông dân trên phạm vi toàn quốc hoặc một số vùng cụ thể đã làm phong phú thêm kiến thức nghiên cứu về kinh tế hộ ở nước ta. Tuy nhiên, kinh tế hộ là một chủ thể rộng lớn, mỗi công trình đề cập đến những khía cạnh và phạm vi nhất định. Mặt khác, trên thực tế luôn có sự vận động và biến đổi không ngừng đặc biệt là trong quá trình hội nhập sâu và toàn cầu hoá nền kinh tế, vì thế cần thiết phải có những nghiên cứu mới bổ sung và hoàn thiện. Trong điều kiện cụ thể của huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương - một trong những huyện thuộc vùng Đồng bằng Bắc Bộ - kinh tế nông nghiệp còn giữ vai trò chủ yếu nhưng chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu, đánh giá một cách có hệ thống việc sử dụng tối ưu các nguồn lực nhằm phản ánh đúng thực trạng và đưa ra những giải pháp có tính khoa học nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân nói chung và kinh tế địa phương nói riêng. Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Tối ưu hoá các nguồn lực sản xuất nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương”. 1.2 Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1 Mục tiêu chung Nghiên cứu đánh giá đúng đắn thực trạng, phân tích rõ những yếu tố ảnh hưởng và các yếu tố bị hạn chế trong phát triển kinh tế hộ nông dân. Xây dựng các phương án để khai thác tối ưu các nguồn lực của hộ nông dân nói riêng và của huyện nói chung. Đề ra những định hướng đúng đắn và các giải pháp phù hợp để phát triển kinh tế hộ nông dân tại huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương một cách tối ưu. 1.2.2 Mục tiêu cụ thể - Hệ thống hoá cơ sở lý luận cơ bản về tối ưu hoá, nguồn lực sản xuất, phát triển kinh tế hộ nông dân và lý thuyết biên về sử dụng các nguồn lực trong sản xuất; - Đánh giá thực trạng tình hình phát triển kinh tế và sử dụng các nguồn lực để phát triển kinh tế hộ nông dân trên địa bàn nghiên cứu; - Xác định rõ những nguyên nhân, phân tích rõ các yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng các nguồn lực; mô phỏng sự thay đổi các điều kiện có ảnh hưởng đến việc sử dụng nguồn lực và phát triển kinh tế hộ nông dân trên địa bàn nghiên cứu; - Đề xuất định hướng và các giải pháp phù hợp để phát triển kinh tế hộ nông dân trên địa bàn nghiên cứu một cách tối ưu trong thời gian tới. 1.3 Đối tượng nghiên cứu - Những vấn đề về lý luận về tối ưu hoá, nguồn lực và phát triển kinh tế hộ nông dân. - Những vấn đề thực tiễn về tối ưu hoá sử dụng các nguồn lực trong phát triển kinh tế hộ nông dân tại địa bàn nghiên cứu. Cụ thể là sẽ điều tra, khảo sát, đánh giá những hộ nông dân tại địa bàn nghiên cứu. 1.4 Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: + Lý thuyết sử dụng nguồn lực trong nền kinh tế thị trường. + Phân tích thực trạng tình hình phát triển kinh tế hộ nông dân và tình hình sử dụng các nguồn lực cho phát triển kinh tế hộ nông dân. + Đề tài tập trung đi sâu nghiên cứu một số nguồn lực sản xuất chủ yếu gồm: nguồn lực đất đai, nguồn lực lao động và nguồn lực vốn, các nguồn lực khác cũng được đề cập đến trong đề tài. + Đề tài tập trung đi sâu vào nghiên cứu vận dụng: Hàm sản xuất để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả sản xuất; các mô hình quy hoạch để tối ưu hoá việc sử dụng các nguồn lực nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân; đánh giá khả năng, đề xuất những giải pháp, chính sách phù hợp phát triển kinh tế hộ nông dân. - Phạm vi không gian: trên phạm vi huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương và tại các điểm được lựa chọn. - Phạm vi thời gian: Đánh giá thực trạng tối ưu hoá sử dụng các nguồn lực nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân năm 2007, đề ra định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để phát triển kinh tế hộ nông dân đến năm 2015. 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 2.1 Một số khái niệm cơ bản 2.1.1 Nguồn lực sản xuất và tối ưu hoá các nguồn lực sản xuất 2.1.1.1 Nguồn lực sản xuất của kinh tế hộ nông dân - Khái niệm: Nguồn lực trong nông hộ là năng lực các yếu tố hộ sử dụng để tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Các yếu tố đó như: đất đai, lao động, tư liệu sản xuất, tiền vốn, trình độ, năng lực quản lý, tiến hành sản xuất của chủ hộ…[1]. - Đặc điểm nguồn lực của kinh tế hộ nông dân: Mỗi nguồn lực có đặc điểm riêng song tựu chung lại chúng gồm có các đặc điểm như: do thừa kế; vừa mang tính sở hữu, vừa có tính sử dụng; nguồn lực hạn hẹp; mang tính thời vụ; trình độ thấp, lao động thủ công; công cụ đa số còn thô sơ…[1]. - Phân loại nguồn lực của kinh tế hộ nông dân: + Nguồn lực trong nông hộ: là những nguồn lực thuộc quyền sở hữu và sử dụng trực tiếp của nông hộ bao gồm: đất, lao động, vốn, tài sản…của nông hộ. + Nguồn lực ngoài nông hộ: là những nguồn lực không thuộc riêng của hộ, nông hộ chỉ có thể khai thác và vận dụng để phục vụ cho mục tiêu của hộ, bao gồm: cơ sở hạ tầng, thị trường, dịch vụ, môi trường, chính sách kinh tế xã hội…[1]. 2.1.1.2. Một số vấn đề về tối ưu hoá các nguồn lực sản xuất - Tối ưu hoá: là quá trình cân nhắc tất cả những nhân tố trong một tình hình nào đó với mục đích tạo được sự hoạt động có hiệu quả nhất hay tối ưu, tính đến những giới hạn không thể tránh được [2]. Tối ưu hoá còn được xem là một sự xác định việc kết hợp tốt nhất các đầu vào để đạt một mục tiêu. Tối ưu hoá đề cập đến việc đạt được kết quả lớn nhất bằng những phương tiện vốn có hoặc đạt được kết quả mong muốn với chi phí ít hơn. Trong lĩnh vực kinh tế, mọi quyết định kinh tế đều chịu những ràng buộc nhất định, đó là sự khan hiếm các phương tiện (nguồn lực). Do vậy, chúng ta đang nói tới "sự tối ưu có ràng buộc", tức là điều tốt nhất có thể đạt được trong hoàn cảnh tồn tại những hạn chế; khi phải đạt được từ hai mục tiêu trở lên thì đôi khi phải nói đến "một sự tối ưu trong tối ưu" - tình huống tốt nhất trong số những tình huống tốt nhất. Ví dụ, chi tiêu của một hộ gia đình bị ràng buộc bởi thu nhập, tiết kiệm và khả năng vay nợ. Chủ hộ sẽ tìm cách tối ưu hoá chi tiêu của mình bằng cách phối hợp mà họ cho là tốt nhất ba nguồn tiền nói trên. Trong phạm vi một quốc gia, một vùng hay một đơn vị sản xuất, thường bị ràng buộc bởi sự khan hiếm nguồn lực (tài nguyên, lao động, vốn...) phải tìm phương án sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực đó để phát triển kinh tế. Những nhà kinh tế tư sản theo quan điểm hình thức đã xem kinh tế học là khoa học tối ưu hoá các lựa chọn. Mọi hoạt động của con người được xem là hoạt động kinh tế khi chúng cho phép đạt được mục tiêu với chi phí ít hơn. Kỹ thuật tối ưu hoá cho phép không chỉ tìm ra một giải pháp khả thi đối với các vấn đề phức tạp mà cả một giải pháp tối ưu tuỳ theo tiêu chuẩn tối ưu đã lựa chọn [2]. - Tối ưu hoá các nguồn lực sản xuất của kinh tế hộ nông dân: Sản xuất nông nghiệp nói chung và phát triển kinh tế hộ nông dân nói riêng là một hệ thống phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố khác nhau có liên quan tác động đến quá trình sản xuất. Do vậy, tối ưu hoá các nguồn lực sản xuất trong kinh tế hộ nông dân cũng là một vấn đề phức tạp cần được giải quyết một cách có hệ thống. Đó chính là việc bố trí kế hoạch sản xuất phù hợp với điều kiện và khả năng của hộ nông dân, khai thác triệt để, bố trí sử dụng một cách hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực với mục đích mang lại thu nhập cao nhất cho người nông dân. Phát hiện ra những yếu tố nguồn lực bị hạn chế, từ đó có những biện pháp và những chính sách tác động kịp thời nhằm đạt được kết quả lớn nhất trong sản xuất kinh doanh cũng như thu nhập của hộ nông dân. Kinh tế hộ nông dân bao gồm các ngành sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp, ngành nghề phụ, làm thuê…Trong mỗi ngành sản xuất lại có nhiều yếu tố sản xuất, nhiều tiểu ngành khác nhau. Các yếu tố sản xuất và các ngành đó lại trực tiếp có ảnh hưởng tác động lẫn nhau. Vì theo quy luật khan hiếm của các nguồn lực như nguồn lực đất đai, lao động, vốn…, nếu ngành này sử dụng nhiều thì ngành kia sẽ phải sử dụng ít đi. Chẳng hạn như đất đai sử dụng nhiều cho sản xuất cây lương thực thì diện tích trồng cây thực phẩm chắc chắn sẽ giảm đi và như vậy sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng một loạt các yếu tố, các nguồn lực khác. Cũng tương tự như vậy đối với lao động, nếu sử dụng nhiều lao động cho làm thuê thì lao động cho sản xuất trồng trọt và chăn nuôi sẽ giảm đi. Qua đó, có thể thấy rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa các yếu tố sản xuất trong nội một ngành sản xuất và giữa các ngành sản xuất. Tuy nhiên, nguồn lực sản xuất không chỉ có sự cạnh tranh mà còn có sự bổ sung, hỗ trợ và tác động qua lại lẫn nhau giữa các ngành sản xuất như: ngành trồng trọt sẽ tạo ra sản phẩm làm thức ăn cho ngành chăn nuôi phát triển; ngược lại ngành chăn nuôi cung cấp sức kéo, phân bón, kích thích ngành trồng trọt phát triển. Do các nguồn lực sản xuất trong phát triển kinh tế hộ nông dân có mối quan hệ chặt chẽ, cạnh tranh và bổ sung, hỗ trợ nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh của hộ nông dân, nên việc bố trí sử dụng hợp lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực theo hướng tối ưu hoá các nguồn lực sản xuất nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân có ý nghĩa hết sức cần thiết. 2.1.2 Khái niệm về phát triển kinh tế hộ nông dân 2.1.2.1 Khái niệm về phát triển kinh tế - Phát triển kinh tế bao hàm ý nghĩa rộng hơn tăng trưởng kinh tế - nó không chỉ bao gồm những thay đổi về số lượng như tăng trưởng kinh tế, mà còn bao gồm cả những thay đổi về chất lượng cuộc sống. Như vậy, phát triển kinh tế có thể hiểu là một quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản lượng và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội. Đó là sự tiến bộ, thịnh vượng và cuộc sống tốt đẹp hơn [3]. - “Phát triển kinh tế theo chiều sâu”: phát triển kinh tế chủ yếu nhờ đổi mới thiết bị, áp dụng công nghệ tiên tiến, nâng cao trình độ kỹ thuật, cải tiến tổ chức sản xuất và phân công lại lao động, sử dụng hợp lí và có hiệu quả các nguồn nhân tài, vật lực hiện có [2]. - “Phát triển kinh tế theo chiều rộng”: là tăng trưởng dựa vào sự gia tăng vốn tương ứng với sự gia tăng của lao động [3]. 2.1.2.2 Khái niệm về hộ Tại Hội thảo Quốc tế lần thứ hai về quản lý trang trại tổ chức ở Hà Lan năm 1980, các đại biểu thống nhất: “Hộ là đơn vị cơ bản của xã hội có liên quan đến sản xuất, tái sản xuất, đến tiêu dùng, và các hoạt động xã hôi khác [4]. Tchayanov - nhà khoa học kinh tế nông nghiệp nổi tiếng hàng đầu của Nga có một quan điểm mang tính chất bao trùm: “Về khái niệm hộ, đặc biệt trong đời sống nông thôn, không bao giờ cũng tương đương với khái niệm sinh học làm chỗ dựa cho nó, mà nội dung đó còn có cả một loạt những phức tạp về đời sống kinh tế và đời sống gia đình” [dẫn theo (dt.) Trần Văn Dư [5]. Theo Giáo sư T.G.Mc.Gee (1989) - Giám đốc Viện Nghiên cứu châu Á thuộc Đại học Tổng hợp British Columbia - khi khảo sát “kinh tế hộ trong quá trình phát triển” ở một số nước châu Á đã nêu lên rằng: “Ở các nước châu Á hầu hết người ta quan niệm hộ là một nhóm người cùng chung huyết tộc ở chung trong một mái nhà, ăn chung một mâm cơm và có chung một ngân quỹ [1]. Theo GS. Raul Iturna, hộ là một tập hợp những người cùng chung huyết tộc, có quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình tạo ra vật phẩm để bảo tồn chính bản thân họ và cộng đồng [1]. Trên đây là những khái niệm tiêu biểu, từ những quan niệm này có thể thấy rằng: 1. Hộ là một tập hợp chủ yếu và phổ biến của những thành viên có chung huyết tộc hay không cùng chung huyết tộc. 2. Hộ nhất thiết là một đơn vị kinh tế, có nguồn lao động và phân công lao động chung; có vốn và kế hoạch sản xuất kinh doanh chung, là đơn vị vừa sản xuất vừa tiêu dùng, có ngân quỹ chung và được phân phối lợi ích theo thoả thuận có tính chất gia đình. Hộ không phải là một thành phần kinh tế đồng nhất, mà hộ có thể thuộc thành phần kinh tế cá thể, tư nhân, tập thể. 3. Hộ không đồng nhất với gia đình mặc dù cùng chung huyết thống, bởi vì hộ là một đơn vị kinh tế riêng, còn gia đình có thể không phải là một đơn vị kinh tế (ví dụ gia đình nhiều thế hệ cùng chung huyết thống, cùng chung một mái nhà nhưng nguồn sinh sống và ngân quỹ lại độc lập với nhau…).
Để DOWNLOAD vui lòng đọc hướng dẫn tại: https://lop12n.forum-viet.com/t842-topic#1947 |
|