Mr.Phieudu236 Administrator
Bài viết : 1101 Điểm : 2664 Voted : 164 Gia nhập : 22/02/2011 Age : 34 Đến từ : C:\WINDOWS\System32 Thành tích :
| Tiêu đề: LuẬn vĂn thẠc sỸ: Nghiên cỨu chuỖi giá trỊ ngành hàng rau cẢi bẮp huyỆn vĂn lâm tỈnh hƯng yên Mon Jun 20, 2011 11:34 am | |
| Luận văn dài 167 trang: 1. MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Ở Việt Nam, nông nghiệp được xác định là ngành mũi nhọn trong chiến lược phát triển nền kinh tế đất nước. Trong những năm qua, ngành nông nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu lớn, đóng góp một phần quan trọng vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Bên cạnh nhiều ngành hàng nông nghiệp có thế mạnh như: lúa gạo, Cà phê, cao su... ngành sản xuất rau đang từng bước vươn lên cải tiến cách thức sản xuất, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh hướng tới mục tiêu là mặt hàng nông sản xuất khẩu mũi nhọn. Nhiều chính sách lớn khuyến khích phát triển sản xuất rau quả đã ra đời, trong đó quy hoạch phát triển rau quả Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 và chính sách hỗ trợ phát triển ngành rau, quả, chè an toàn đến năm 2015 đã được phê duyệt [24], [25] là những yếu tố hết sức thuận lợi cho sự phát triển của ngành hàng rau trong tương lai. Rau có vị trí quan trọng trong bữa ăn hàng ngày của mỗi người. Rau cung cấp cho con người nhiều chất dinh dưỡng cần thiết như: Vitamin, chất khoáng, axit hữu cơ và nhiều chất bổ khác... Ngoài ra, phát triển sản xuất rau còn có ý nghĩa cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp thực phẩm và là nguồn hàng xuất khẩu có giá trị. Sản xuất rau quả đã và đang đem lại hiệu quả kinh tế cao trong ngành trồng trọt. Nó không chỉ có khả năng thu hút nhiều lao động và giải quyết việc làm, mà còn góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất ngành trồng trọt theo hướng đa dạng hoá sản phẩm với chất lượng cao. Với ý nghĩa to lớn ấy, rau được phát triển và trở thành một ngành sản xuất quan trọng không thể thiếu được trong nông nghiệp. Ở nước ta, rau được trồng nhiều vụ trong năm với nhiều giống và chủng loại phong phú. Diện tích rau thường được mở rộng hơn vào vụ đông với các giống rau có nguồn gốc ôn đới ưa lạnh. Kỹ thuật, quy trình sản xuất và công nghệ mới ngày càng được tiếp cận, chuyển giao ứng dụng vào thực tiễn. Trong những năm qua, sản xuất rau bên cạnh những thuận lợi cũng gặp không ít khó khăn, thách thức; bản chất rau quả chứa nhiều nước nên dễ bị hư hỏng nhưng chưa có phương tiện bảo quản, chế biến hữu hiệu. Sản phẩm của rau hàng hoá đòi hỏi tươi, ngon, chất lượng đảm bảo thoả mãn nhu cầu tiêu dùng hàng ngày của nhân dân thành thị cũng như nông thôn nhưng thực tiễn chưa đáp ứng được. Rau thường được sản xuất ra với số lượng lớn, cồng kềnh, khó vận chuyển nên chi phí cao. Vì vậy, tổ chức sản xuất và bố trí sản xuất phải hợp lý để vừa tiện cho việc thâm canh và vừa thuận tiện cho việc chế biến, vận chuyển tiêu thụ sản phẩm. Trong nền kinh tế thị trường, với xu hướng hội nhập người sản xuất không chỉ quan tâm đến thị trường tiêu dùng trong nước mà còn hướng mạnh ra xuất khẩu. Từ đó hình thành nên các chuỗi trong ngành hàng. Riêng ngành rau, các chuỗi đã bắt đầu hình thành nhưng còn đơn giản, có ít các tác nhân tham gia. Sự liên kết và trách nhiệm của các tác nhân trong kênh tiêu thụ chưa hình thành nên khái niệm về chuỗi hàng hóa dịch vụ còn mang tính lý thuyết. Mặt khác sản xuất rau hiện nay còn manh mún, đơn lẻ và tự phát, thiếu các mối liên kết gần gũi thân thiện giữa những người trồng rau với các nhà cung ứng các hàng hoá dịch vụ đầu vào cũng như tiêu thụ sản phẩm. Hay nói cách khác, mối liên kết, sự tương tác nhiều mặt giữa các tác nhân tham gia và trách nhiệm của họ trong chuỗi cung ứng các hàng hoá dịch vụ đầu vào và tiêu thụ sản phẩm với người sản xuất còn yếu. Đây là hạn chế rất lớn tới việc giảm chi phí sản xuất, tối đa hoá lợi ích kinh tế của từng tác nhân trong chuỗi cũng như khó khăn trong phát triển mở rộng quy mô, diện tích sản xuất rau. Trên thế giới ở các nước phát triển như Nhật Bản, Hà Lan, Vương quốc Bỉ chuỗi cung ứng các loại hàng hóa, dịch vụ đã phát triển đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Chuỗi cung ứng hàng hóa dịch vụ là nhu cầu cần thiết của các nhà sản xuất, cung ứng đầu vào, tiêu thụ sản phẩm và người tiêu dùng. Những vấn đề nảy sinh như chất lượng sản phẩm, an toàn sản phẩm, giá cả ... của hàng hóa nào thì đều có địa chỉ và trách nhiệm đảm bảo. Tại Việt Nam với sự hỗ trợ của các dự án phát triển nghiên cứu, một số nghiên cứu mới đây về cao su, cà phê.... đã mô tả thực trạng các ngành hàng nhưng đều nhận xét rằng chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ nông sản Việt Nam mới đang bắt đầu hình thành .... nên hiện nay chất lượng, giá cả, lợi ích và ngay cả an toàn thực phẩm không ai chịu trách nhiệm và người sản xuất thường thua thiệt. Tỉnh Hưng Yên nói chung, Huyện Văn Lâm nói riêng là vùng đất tiếp giáp với Thủ đô Hà Nội, Hưng Yên đã và đang trong quá trình đô thị hoá và chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, nông thôn. Nhu cầu về rau phục vụ tiêu dùng nội bộ, đáp ứng một phần nhu cầu rất lớn của thị trường Hà Nội. Tiềm năng phát triển thành vùng nguyên liệu rau cho công nghiệp chế biến cũng như xuất khẩu rau củ chính là lợi thế rất lớn của người nông dân. Tuy nhiên, lợi thế này chưa được khai thác tốt. Thông tin về ngành hàng rau đến với nông dân còn ít, sản xuất nhỏ lẻ, giá thành sản phẩm còn cao, các hoạt động liên quan đến sản xuất rau trong chuỗi giá trị hàng hoá nông sản còn rời rạc, liên kết yếu.... Điều này phần nào giải thích tại sao tốc độ tăng diện tích, sản lượng rau chưa cao. Việc nghiên cứu chuỗi giá trị ngành hàng rau tại huyện Văn Lâm Tỉnh Hưng Yên có ý nghĩa rất quan trọng. Nó sẽ giúp cho các nhà quản lý kinh tế, các nhà chỉ đạo sản xuất hiểu rõ hơn hoạt động sản xuất, kinh doanh rau, những mối quan hệ, các tương tác và sự phân phối lợi ích của từng tác nhân trong chuỗi, từ đó đề xuất những giải pháp tác động hợp lý nhằm hình thành, hoàn thiện và phát triển chuỗi giá trị ngành hàng rau vụ đông góp phần thúc đẩy việc mở rộng diện tích và tăng hiệu quả kinh tế cho từng tác nhân. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi tiến hành lựa chọn nghiên cứu đề tài: Nghiên cứu chuỗi giá trị ngành hàng rau cải bắp huyện Văn Lâm Tỉnh Hưng yên. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 1.2.1. Mục tiêu chung Trên cơ sở khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng các tác nhân trong chuỗi giá trị ngành hàng rau cải bắp huyện Văn Lâm Tỉnh Hưng Yên mà đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển chuỗi cung cấp hàng hóa dịch vụ ngành hàng rau cải bắp của huyện trong những năm tiếp theo. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể - Hệ thống hoá lý luận và thực tiễn về chuỗi giá trị nói chung và chuỗi giá trị ngành hàng rau nói riêng. - Xác định chuỗi giá trị và giá trị gia tăng của từng tác nhân tham gia ngành hàng rau cải bắp của huyện trong những năm qua. - Phát hiện những tồn tại và các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển chuỗi giá trị ngành hàng rau cải bắp của huyện. - Đề xuất những giải pháp nhằm hình thành, hoàn thiện và phát triển chuỗi giá trị ngành hàng rau cải bắp cho huyện những năm tới. 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu. Các đối tượng nghiên cứu của đề tài là : - Rau cải bắp tươi (sản phẩm của ngành hàng) trồng ở vụ đông với các giống cải bắp (C90, AK, bắp sần) đang được trồng trên địa bàn huyện Văn Lâm. - Các tác nhân của ngành hàng rau cải bắp: Hộ nông dân, người thu gom, người bán buôn, người bán lẻ, người tiêu dùng. - Các hoạt động trong chuỗi giá trị ngành hàng như: Sản xuất, thu gom, vận chuyển, bán buôn, bán lẻ.... 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu. a - Về không gian: Đề tài nghiên cứu trên phạm vi toàn huyện, song một số nội dung chuyên sâu được khảo sát tại tại một số xã, thị trấn, hộ gia đình sản xuất, hộ kinh doanh rau cải bắp. b - Về thời gian: Các thông tin phục vụ cho nghiên cứu này được thu thập từ năm 2005 - 2008, các giải pháp đề xuất có thể áp dụng cho năm 2009 - 2010 và các năm tiếp theo. c - Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề chính như: Thực trạng sản xuất và tiêu thụ cải bắp, chuỗi giá trị ngành hàng rau cải bắp, các yếu tố ảnh hưởng đến chuỗi giá trị ngành hàng cải bắp và đề xuất các giải pháp hoàn thiện và phát triển chuỗi giá trị ngành hàng rau cải bắp trên đại bàn huyện Văn Lâm. 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUỖI GIÁ TRỊ NGÀNH HÀNG 2.1. Cơ sở lý luận 2.1.1. Những khái niệm cơ bản 2.1.1.1. Chuỗi sản xuất- cung ứng Đây là khái niệm mới sử dụng trong kinh tế thị trường với mục tiêu chính là sản xuất hàng hóa theo ngành hàng. Từ các quan điểm của các nhà kinh tế khác nhau chúng tôi cho rằng, một chuỗi sản xuất được hiểu đó là tất cả các bên tham gia vào một hoạt động kinh tế có sử dụng các yếu tố đầu vào để tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh và chuyển giao sản phẩm đó tới người tiêu dùng cuối cùng [9]. Trong một chuỗi sản xuất - cung ứng: dòng luân chuyển thông tin thường không phải là chủ yếu mà mục tiêu chính hướng đến là chi phí và giá. Chiến lược sản xuất thường tập trung vào các sản phẩm, hàng hoá cơ bản. Định hướng của chuỗi sản xuất - cung ứng chủ yếu là hướng cung....[9]. Vấn đề trọng tâm của chuỗi sản xuất chính là khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và kết cấu tổ chức trong chuỗi là các tác nhân tham gia độc lập. 2.1.1.2. Chuỗi giá trị Chuỗi giá trị hàng hóa - dịch vụ là nói đến những hoạt động cần thiết để biến một sản phẩm (hoặc một dịch vụ) từ lúc còn là khái niệm khác nhau, đến khi phân phối tới người tiêu dùng cuối cùng và vứt bỏ sau khi đã sử dụng. Một chuỗi giá trị tồn tại khi tất cả những người tham gia trong chuỗi hoạt động và có trách nhiệm tạo ra giá trị tối đa trong toàn chuỗi [8]. Chúng ta có thể hiểu khái niệm này theo nghĩa hẹp hoặc nghĩa rộng: Nếu hiểu chuỗi giá trị theo nghĩa hẹp thì chuỗi giá trị là một khối liên kết dọc hoặc một mạng liên kết giữa một số tổ chức kinh doanh độc lập trong một chuỗi sản xuất. Hay nói cách khác một chuỗi giá trị gồm một loạt các hoạt động thực hiện trong một đơn vị sản xuất để sản xuất ra một sản phẩm nhất định. Tất cả các hoạt động này tạo thành một “chuỗi” kết nối người sản xuất với người tiêu dùng, mặt khác mỗi hoạt động lại bổ xung giá trị cho sản phẩm cuối cùng [9]. Nếu hiểu Chuỗi giá trị theo nghĩa rộng thì đó là một phức hợp những hoạt động do nhiều người tham gia khác nhau thực hiện để biến một nguyên liệu thô thành thành phẩm được bán lẻ. Kết quả của chuỗi có được khi sản phẩm đã được bán cho người tiêu dùng cuối cùng [9]. Như vậy, khái niệm về chuỗi giá trị đã bao hàm cả tổ chức và điều phối, các chiến lược và quan hệ quyền lực của những người tham gia khác nhau trong chuỗi. 2.1.1.3. Ngành hàng Theo Fabre “ Ngành hàng được coilà tập hợp các tác nhân kinh tế quy tụ trực tiếp vào việc tạo ra các sản phẩm cuối cùng. Như vậy ngành hàng đã vạch ra sự kế tiếp của các hoạt động, xuất phát từ điểm ban đầu đến điểm cuối cùng của một nguồn lực hay một sản phẩm trung gian, trải qua nhiều giai đoạn của quá trình gia công, chế biến để tạo ra một hay nhiều sản phẩm hoàn chỉnh ở mức độ người tiêu thụ”[10]. Nói cách khác “ Ngành hàng là tập hợp những tác nhân kinh tế đóng góp trực tiếp vào sản xuất, tiếp đó là gia công sản phẩm, chế biến và đi đến một thị trường hoàn tất của các sản phẩm nông nghiệp.
Để DOWNLOAD vui lòng đọc hướng dẫn tại: https://lop12n.forum-viet.com/t842-topic#1947 |
|