Mr.Phieudu236 Administrator
Bài viết : 1101 Điểm : 2664 Voted : 164 Gia nhập : 22/02/2011 Age : 34 Đến từ : C:\WINDOWS\System32 Thành tích :
| Tiêu đề: LuẬn vĂn thẠc sỸ: Bước đầu đánh giá mức độ ảnh hưởng của đô thị hoá đến khu vực nông nghiệp, nông thôn huyện Cẩm Giàng - tỉnh Hải Dương Tue Jun 21, 2011 11:27 am | |
|
Luận văn dài 121 trang: 1. MỞ ĐẦU 1.1 Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đô thị hoá đang diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh ở Việt Nam. Có thể nói đô thị hoá là quá trình tất yếu trong phát triển kinh tế - xã hội, và đó là xu thế tích cực tạo nên động lực mới cho nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, quá trình đô thị hoá đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Vấn đề tạo việc làm cho nông dân bị mất đất, phương thức đền bù khi giải phóng mặt bằng, cách thức di dân, dãn dân... đang phát sinh ngày càng phức tạp. Nếu không có một chiến lược cụ thể, chúng ta sẽ gặp nhiều vướng mắc và sẽ lúng túng trong quá trình giải quyết những vướng mắc đó. Huyện Cẩm Giàng nằm ở phía Tây của thành phố Hải Dương, trên trục đường Quốc lộ 5 là đường giao thông huyết mạch nối với các thành phố lớn là thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng, thành phố Quảng Ninh - vùng có tốc độ đô thị hoá mạnh. Trong những năm gần đây, theo quy hoạch của tỉnh rất nhiều xã thuộc huyện Cẩm Giàng nằm trong diện phải chuyển đổi diện tích đất nông nghiệp thành các khu công nghiệp. Chỉ trong 5 năm (2001-2006) huyện Cẩm Giàng đã xây dựng mới 3 khu công nghiệp lớn là khu công nghiệp Đại An với diện tích 640,82 ha; khu công nghiệp Tân Trường với diện tích 200 ha và khu công nghiệp Phúc Điền với diện tích 87 ha, ngoài khu công nghiệp ra còn khoảng gần 500 ha đất dành cho các khu, cụm công nghiệp của các doanh nghiệp đầu tư trong nước và của nước ngoài [14]. Vì nhường đất cho đô thị hoá mà huyện Cẩm Giàng đã bị thu hẹp đất nông nghiệp. Quá trình đô thị hoá tạo nhiều cơ hội việc làm mới, phát triển nhiều loại hình dịch vụ nhờ đó nâng cao thu nhập cho người lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và nước ngoài đầu tư, đồng thời nó là sức bật cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên, đô thị hoá đã gây ra không ít khó khăn và áp lực lớn cho việc giải quyết các mâu thuẫn trên địa bàn như việc làm của những hộ nông dân bị mất đất; vấn đề đào tạo nghề; việc thay đổi suy nghĩ và cách làm kinh tế mới; việc đền bù đất cho người nông dân và vấn đề xã hội. Để giải quyết mâu thuẫn trên địa bàn huyện Cẩm Giàng do đô thị hoá mang lại, trước hết phải xác định được mức độ ảnh hưởng của đô thị hoá đến huyện đặc biệt là khu vực nông nghiệp nông thôn huyện. Với mục đích đó chúng tôi nghiên cứu đề tài “Bước đầu đánh giá mức độ ảnh hưởng của đô thị hoá đến khu vực nông nghiệp, nông thôn huyện Cẩm Giàng - tỉnh Hải Dương”. 1.2 Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1 Mục tiêu chung Bước đầu đánh giá mức độ ảnh hưởng của đô thị hoá đến khu vực nông nghiệp, nông thôn nhằm đề xuất một số giải pháp giải quyết những ảnh hưởng của đô thị hoá đến khu vực nông nghiệp, nông thôn huyện Cẩm Giàng. 1.2.2 Mục tiêu cụ thể: - Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn cơ bản về đô thị, đô thị hoá và các nhân tố ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá. - Phát hiện các vấn đề phát sinh, những tác động tích cực, vướng mắc để đánh giá trong quá trình đô thị hoá ở khu vực nông nghiệp, nông thôn huyện Cẩm Giàng. - Đề xuất các giải pháp chủ yếu và kiến nghị một số vấn đề nhằm giải quyết những ảnh hưởng của đô thị hoá đến nông nghiệp, nông thôn huyện Cẩm Giàng 1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.3.1 Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn của đô thị hoá và mức độ ảnh hưởng tới khu vực nông nghiệp, nông thôn trong quá trình phát triển kinh tế theo hướng đô thị hoá. Đối tượng nghiên cứu là các hộ nông dân chịu sự tác động của quá trình đô thị hoá huyện Cẩm Giàng. Khu vực I - khu vực đô thị, đại diện cho khu vực này là thị trấn Lai Cách. Khu vực II - khu vực ven hay cận đô thị, đại diện cho khu vực này chọn xã Cẩm Điền. Khu vực III - khu vực nông nghiệp nông thôn (thuần nông), đại diện cho khu vực này chọn xã Tân Trường. 1.3.2 Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: đề tài nghiên cứu trên địa bàn huyện Cẩm Giàng, tập trung vào 02 xã và 01 thị trấn là xã Tân Trường, xã Cẩm Điền, và thị trấn Lai Cách là các xã và thị trấn bị thu hồi đất nhiều nhất trong huyện cho quá trình đô thị hoá. - Về thời gian: những số liệu thứ cấp được thu thập từ năm 2000-2007. Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua điều tra, phỏng vấn hộ nông dân năm 2008. - Về nội dung nghiên cứu: nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của đô thị hoá đến khu vực nông nghiệp, nông thôn huyện Cẩm Giàng mà đối tượng nghiên cứu là các hộ nông dân.
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 2.1 Cơ sở lí luận 2.1.1 Các khái niệm cơ bản a. Khái niệm về đô thị Khái niệm về đô thị có thể được nhìn nhận từ nhiều giác độ khác nhau như chức năng kinh tế, quy mô dân số, cơ cấu quy hoạch, quản lý... Nhìn chung các quan điểm đều cho rằng, đô thị có những đặc điểm sau: - Đô thị là nơi tập trung đông dân cư, mật độ dân số đô thị cao hơn bất kỳ một vùng nông thôn nào khác, lao động là phi nông nghiệp sống và làm việc theo kiểu thành thị [3]. - Đô thị là nơi tập trung của các hoạt động kinh tế không trực tiếp coi đất đai là đối tượng lao động; Dân đô thị chủ yếu là lao động phi nông nghiệp bao gồm lao động công nghiệp và thủ công nghiệp; lao động xây dựng cơ bản; lao động trong lĩnh vực giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, tín dụng ngân hàng; lao động trong các ngành thương mại, dịch vụ công, du lịch; lao động trong các cơ quan hành chính, văn hoá xã hội, giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học và các loại lao động khác ngoài lao động trực tiếp về nông nghiệp [6]. - Đô thị có kiểu kiến trúc quy hoạch hoàn toàn khác với nông thôn. Tại các đô thị, các khu nhà ở và các cơ sở sản xuất nông nghiệp, các công trình văn hoá, khoa học, thương mại... thường được phân bổ theo từng khu, từng dãy theo các trục đường giao thông (được coi là đường phố), có liên kết với nhau chứ không phân tán như ở các vùng nông thôn [6]. - Kết cấu hạ tầng đô thị là yếu tố phản ánh mức độ phát triển và tiện nghi sinh hoạt của người dân đô thị theo lối sống đô thị. Kết cấu hạ tầng đô thị gồm hạ tầng kỹ thuật (như giao thông, điện nước, hệ thống cấp thoát nước, năng lượng, thông tin, xử lý chất thải, vệ sinh môi trường...) và hạ tầng xã hội (như nhà ở, công trình dịch vụ công cộng, y tế, văn hoá, xã hội, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học, thể dục thể thao, công viên cây xanh, giải trí. Ngoài ra, các nước trên thế giới cũng có những quy định riêng để phân biệt đô thị và nông thôn mà chủ yếu là các quy định theo quy mô dân số và các loại hình đô thị. Quan niệm chung ở Việt Nam hiện nay và nhiều quốc gia đều cho rằng đô thị là những điểm dân cư tập trung phần lớn những người dân phi nông nghiệp, sống và làm việc theo kiểu thành thị. Việc xác định quy mô dân cư tối thiểu phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế - xã hội của từng quốc gia và tỷ lệ phần trăm lao động phi nông nghiệp của một đô thị. Tại Việt Nam, theo phân cấp quản lý, đô thị là các thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thành lập. Quyết định số 132/QĐ - HĐBT ngày 5 tháng 5 năm 1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) cũng đã quy định đô thị là các điểm dân cư có các yếu tố cơ bản sau: - Là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của một vùng lãnh thổ nhất định. - Quy mô dân số nhỏ nhất là 4000 người (vùng núi có thể thấp hơn). - Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp ≥ 60% tổng số lao động, là nơi có sản xuất và dịch vụ thương mại hàng hoá phát triển. - Có cơ sở hạ tầng kỹ thuật các các công trình công cộng phục vụ dân cư thành thị. - Mật độ dân cư được xác định tuỳ theo từng loại đô thị và phù hợp với đặc điểm từng vùng. Ngoài ra, Thông tư liên tịch số 02/2002/TTLT-BXD-BTC- BCP ngày 8 tháng 3 năm 2002 của Liên bộ Xây dựng và Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ cũng quy định: đối với khu vực nội thị (nội thành phố, nội thị xã, thị trấn), tỷ lệ lao động phi nông nghiệp tối thiểu phải đạt 65% tổng số lao động; kết cấu hạ tầng phục vụ các hoạt động của dân cư tối thiểu phải đạt 70% mức tiêu chuẩn, quy chuẩn thiết kế quy hoạch, xây dựng quy định cho từng loại đô thị; quy mô dân số ít nhất là 4.000 người và mật độ dân số tối thiểu phải đạt 2000 người/km2. Như vậy, đô thị là điểm tập trung dân cư với mật độ cao, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, có hạ tầng cơ sở thích hợp, là trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của vùng lãnh thổ gồm nhiều tỉnh, một tỉnh, một huyện hoặc một vùng trong huyện. Các đô thị được coi là trung tâm tổng hợp khi chúng có vai trò chức năng nhiều mặt về hành chính, kinh tế, chính trị, an ninh – quốc phòng, văn hoá, xã hội; các đô thị được coi là trung tâm chuyên ngành nếu có một chức năng nào đó nổi trội hơn so với các chức năng khác và giữ vai trò quyết định tính chất của đô thị đó như đô thị công nghiệp, đô thị cảng, đô thị du lịch, đô thị đầu mối giao thông... Việc xác định một đô thị là trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành phải căn cứ vào vị trí của đô thị đó trong một vùng lãnh thổ nhất định. b. Khái niệm về đô thị hoá Có nhiều quan điểm về khái niệm đô thị hoá: Trên quan điểm một vùng, đô thị hoá là một quá trình hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị. Trên quan điểm kinh tế quốc dân, đô thị hoá là một quá trình biến đổi về phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư những vùng không phải đô thị thành đô thị, đồng thời phát triển các đô thị hiện có theo chiều sâu. Đô thị hoá là sự quá độ từ hình thức sống nông thôn lên hình thức sống đô thị của các nhóm dân cư. Khi kết thúc thời kỳ quá độ thì các điều kiện tác động đến đô thị hoá cũng thay đổi và xã hội sẽ phát triển trong các điều kiện mới mà biểu hiện tập trung là sự thay đổi cơ cấu dân cư, cơ cấu lao động. * Đô thị hoá nông thôn là xu hướng bền vững có tính quy luật. Là quá trình phát triển nông thôn và phổ biến lối sống thành phố cho nông thôn (cách sống, hình thức nhà cửa, phong cách sinh hoạt...), thực chất đó là tăng trưởng đô thị theo xu hướng bền vững. *Đô thị hoá ngoại vi là quá trình phát triển mạnh vùng ngoại vi của thành phố do kết quả phát triển công nghiệp, và kết cấu hạ tầng... tạo ra các cụm đô thị, liên đô thị... góp phần đẩy nhanh đô thị hoá nông thôn. *Đô thị hoá giả tạo là sự phát triển thành phố do tăng quá mức dân cư đô thị và do dân cư từ các vùng khác đến, đặc biệt là từ nông thôn... dẫn đến tình trạng thất nghiệp, thiếu nhà ở, ô nhiễm môi trường, giảm chất lượng cuộc sống... Đô thị hoá gắn liền với sự biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội của đô thị và nông thôn trên cơ sở phát triển công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, dịch vụ... do vậy đô thị hoá gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội. Tóm lại, theo chúng tôi đô thị hoá là quá trình biến đổi và phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư, hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị đồng thời phát triển đô thị hiện có theo chiều sâu trên cơ sở hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng quy mô dân số[1].
Để DOWNLOAD vui lòng đọc hướng dẫn tại: https://lop12n.forum-viet.com/t842-topic#1947 |
|