Mr.Phieudu236 Administrator
Bài viết : 1101 Điểm : 2664 Voted : 164 Gia nhập : 22/02/2011 Age : 34 Đến từ : C:\WINDOWS\System32 Thành tích :
| Tiêu đề: LuẬn vĂn thẠc sỸ: Nâng cao nĂng lỰc cẠnh tranh sẢn phẨm gỐm cỦa làng nghỀ phù lãng, huyỆn quẾ võ, tỈnh bẮc ninh Tue Jun 21, 2011 11:28 am | |
|
Luận văn dài 146 trang: 1. MỞ ĐẦU 1.1 Tính cấp thiết của đề tài Nông thôn Việt Nam chiếm tới 73% dân số của cả nước, thu nhập từ sản xuất nông nghiệp còn thấp. Bởi vậy, việc phát triển công nghiệp nông thôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong tiến trình CNH- HĐH đất nước. Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã chỉ rõ”... Khuyến khích để các doanh nghiệp và hợp tác xã đầu tư phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn..., phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa; phát triển bền vững các làng nghề... Tạo điều kiện cho lao động nông thôn có việc làm cả trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, tại chỗ và ngoài nông thôn...”[9] Do đó, trong những năm qua, Đảng và nhà nước đã quan tâm đến việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, cụ thể: Một khoản đầu tư trên 11000 tỷ đồng dự kiến sẽ được rót cho lĩnh vực bảo tồn và phát triển làng nghề ở Việt Nam từ nay đến năm 2020.[31] Trong bối cảnh Việt Nam là thành viên của WTO, các làng nghề, các doanh nghiệp có nhiều cơ hội song cũng phải đối mặt với nhiều thách thức khác như: Các sản phẩm chịu sự cạnh tranh về giá cả, chất lượng, chủng loại...hết sức gay gắt ở thị trường trong nước cũng như trên thị trường thế giới. Phù Lãng là một xã thuộc huyện Quế Võ, Tỉnh Bắc Ninh xa xưa vốn là một trong ba trung tâm gốm của miền Bắc, đó là: Thổ Hà (Bắc Giang), Bát Tràng (Hà Nội) cùng có tuổi đời trên 600 năm và cũng là một làng nghề tiêu biểu trong 62 làng nghề truyền thống của tỉnh. Sản phẩm của làng nghề đó là đồ gốm Phù Lãng. Trong quá trình phát triển nghề truyền thống, gốm Phù Lãng đã trải qua những bước thăng trầm, nhiều lúc tưởng như không thể phát triển, song nó vẫn tồn tại duy trì và kết quả là hiện nay gốm Phù Lãng đã có mặt ở một số thị trường xuất khẩu như Anh, Pháp, Nhật, Hàn Quốc...Mặc dù vậy, mới chỉ có một số rất ít nhà sản xuất gồm Phù Lãng tham gia các thị trường này, còn lại số đông là các hộ sản xuất nhỏ lẻ các sản phẩm có giá trị hàng hóa thấp. Sức ép cạnh tranh ngày càng gia tăng cũng như cơ hội của các sản phẩm gốm khi gia nhập WTO đang là vấn đề được chính quyền địa phương và các hộ sản xuất phải quan tâm tới. Mục tiêu cuối cùng phải nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm truyền thống này, mang lại thu nhập cao hơn cho người sản xuất. Vậy hiện tại khả năng cạnh tranh của gốm Phù Lãng như thế nào? Và làm thế nào để nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của gốm Phù Lãng? Để góp phần giải đáp những câu hỏi này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài :”Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm gốm của làng nghề Phù Lãng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh” Nghiên cứu đề tài này sẽ cung cấp thêm cơ sở khoa học cho việc đề ra giải pháp nhằm giữ gìn và phát triển làng nghề, giữ gìn các văn hóa cổ truyền và nâng cao đời sống cho nhân dân địa phương góp phần đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn và hội nhập kinh tế quốc tế. 1.2 Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1 Mục tiêu chung Mục đích nghiên cứu đề tài để nhằm đưa ra cách nhìn đầy đủ về sức cạnh tranh sản phẩm từ đó đề xuất những biện pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của một số sản phẩm chủ yếu làng nghề gốm Phù Lãng. 1.2.2 Mục tiêu cụ thể - Hệ thống hóa lý luận và thực tiễn về làng nghề, sản xuất gốm và năng lực cạnh tranh sản phẩm hàng hóa - Đánh giá thực trạng sản xuất gốm Phù Lãng trong thời gian qua - Đánh giá năng lực cạnh tranh của gốm Phù Lãng - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của gốm Phù Lãng 1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.3.1 Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu những vấn đề lý luận và thực tiễn về năng lực cạnh tranh một số sản phẩm chính của làng nghề, của các hộ làm gốm ở xã Phù Lãng theo quy mô khác nhau. 1.3.2 Phạm vi nghiên cứu · Về không gian Đề tài chủ yếu đi sâu điều tra, khảo sát các hộ sản xuất gốm trên địa bàn xã Phù Lãng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Điều tra một số hộ sản xuất gốm ở Bát Tràng về những vấn đề có liên quan đến đề tài. · Về nội dung Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản liên quan đến hoạt động sản xuất, năng lực cạnh tranh sản phẩm gốm của làng nghề. · Về thời gian Đề tài được tiến hành nghiên cứu từ tháng 12/2007 đến tháng 8/2008 với số liệu điều tra nghiên cứu tập trung trong 3 năm (2005-2007)
2. CƠ SƠ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 2.1 Cơ sở lý luận 2.1.1 Lý luận về năng lực cạnh tranh Trong quá trình nghiên cứu về cạnh tranh, người ta sử dụng khái niệm năng lực cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh được xem xét ở các góc độ khác nhau như năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh của ngành, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ... 2.1.1.1. Năng lực cạnh tranh của một quốc gia [28] Năng lực cạnh tranh đã trở thành một trong những quan tâm của chính phủ và các ngành sản xuất trong mỗi quốc gia. Theo M. Porter, có nhiều cách giải thích vì sao một số quốc gia thành công và một số thất bại khi cạnh tranh trên quốc tế. Mặc dù các cách giải thích này thường mâu thuẫn nhau, và không có một lý thuyết chung nào được chấp nhận. Một số cho rằng năng lực cạnh tranh của quốc gia là một hiện tượng kinh tế vĩ mô, chịu ảnh hưởng của các biến kinh tế vĩ mô như tỷ giá hối đoái, lãi suất...Tuy nhiên một số quốc gia lại có mức sống dân cư tăng lên mặc dù bị thâm hụt ngân sách cao như Nhật, Italia và Hàn Quốc (Micael, 1985). Một số khác cho rằng năng lực cạnh tranh là một hàm số của lao động dồi dào với mức lương thấp. Tuy vậy một số nước như Đức, Thuỵ Sỹ và Thuỵ Điển lại có mức thu nhập rất cao trong khi họ thiếu lao động và giá nhân công rất cao. Kết quả của năng lực cạnh tranh của quốc gia là sự tăng trưởng ổn định của năng suất và cải thiện mức sống của dân cư nước đó. Micheal E. Porter với mô hình Kim cương (Diamond Model) trong phân tích lợi thế cạnh tranh lại cho rằng các yếu tố (các mũi nhọn của kim cương) tạo nên sự cạnh tranh của một quốc gia gồm có (i) chiến lược, cơ cấu công ty/doanh nghiệp, sự cạnh tranh; (ii) điều kiện cầu; (iii) các điều kiện nguồn lực cho sản xuất và (iv) các ngành công nghiệp hỗ trợ. Các yếu tố trên có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, tuy nhiên yếu tố chính phủ và sự thay đổi cũng được đưa vào ảnh hưởng đến cả bốn yếu tố trên. Mô hình này thường để phân tích đánh giá sức cạnh tranh của môt quốc gia trong một ngành công nghiệp nhất định, hoặc sức cạnh tranh của một địa phương cho một ngành sản xuất nhất định. Trong lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia được đề xuất bởi M.Porter (1990), chúng ta thấy ông đã tập trung vào việc giải thích những vấn đề trên. Với lý thuyết này, M.Porter cho rằng sự gia tăng mức sống và sự thịnh vượng của quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào khả năng đổi mới, khả năng tiếp cận nguồn vốn và hiệu ứng lan truyền công nghệ của nền kinh tế. Nói tổng quát hơn, sức cạnh tranh cuả một quốc gia phụ thuộc vào sức cạnh tranh của các ngành trong nền kinh tế. Sức cạnh tranh của một ngành lại xuất phát từ năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành: khả năng đổi mới công nghệ, sản phẩm, cung cách quản lý của ngành và môi trường kinh doanh. Các đầu vào quan trọng đối với hoạt động sản xuất của nền kinh tế không phải chỉ thuần là lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên mà còn là những đầu vào do chính doanh nghiệp hoặc chính phủ tạo ra. Với cách nhìn nhận như vậy, M.Porter (1990) cho rằng bốn yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh của một quốc gia là : 1.Chiến lược của doanh nghiệp, cơ cấu và sự cạnh tranh: Những ngành có chiến lược và cơ cấu phù hợp với các định chế và chính sách cuả quốc gia, hoạt động trong môi trường có cạnh tranh trong nước căng thẳng hơn sẽ có tính cạnh tranh quốc tế mạnh hơn. Chẳng hạn như ngành sản xuất xe hơi của Nhật có một số công ty cạnh tranh mạnh trên thị trường thế giới một phần là do các công ty này đã cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường trong nước, luôn suy nghĩ và hành động mang tính chiến lược. 2.Các điều kiện về phía cầu: Những ngành phải cạnh tranh mạnh ở trong nước thì mới có khả năng cạnh tranh quốc tế tốt hơn. Thị trường trong nước với số cầu lớn, có những khách hàng đòi hỏi cao và môi trường cạnh tranh trong ngành khốc liệt hơn sẽ có khả năng cạnh tranh cao hơn. Chẳng hạn như ngành chế biến thức ăn nhanh của Hoa Kỳ có khả năng cạnh tranh được trên thị trường quốc tế bởi lẽ người tiêu dùng Hoa Kỳ là những người đòi hỏi tốc độ và sự thuận tiện nhất thế giới. 3.Các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan: Tính cạnh tranh của một ngành phụ thuộc vào sức mạnh của các nhà cung cấp các nhập lượng và các dịch vụ hỗ trợ. Các nhà cung cấp nhập lượng có khả năng cạnh tranh trên toàn cầu có thể mang lại cho doanh nghiệp - khách hàng của họ lợi thế về chi phí và chất lượng. Các ngành có quan hệ ngang cũng mang lại lợi thế cạnh tranh thông qua sự lan truyền công nghệ. Sự hiện diện cụm công nghiệp tạo ra cho doanh nghiệp lợi thế kinh tế theo quy mô. Ví dụ như ngành sản xuất máy tính của Hoa Kỳ là ngành đầu đàn vì các công ty có nhiều sáng kiến trong ngành công nghiệp bán dẫn, vi xử lý, hệ thống điều hành và dịch vụ vi tính 4.Các điều kiện về các yếu tố sản xuất: bao gồm chất lượng lao động, vốn và lao động rẻ, cơ sở hạ tầng mạnh và công nghệ cao sẽ ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của ngành và của các quốc gia. ở đây chúng ta nhấn mạnh đến chất lượng của các yếu tố đầu vào được tạo ra chứ không phải là nguồn lực trời cho ban đầu. Chẳng hạn như ngành sản xuất thép ở Ấn Độ có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới dù họ không có tài nguyên về sắt hoặc than, mà bởi vì họ có công nghệ sản xuất tốt. Một quốc gia có lợi thế cạnh tranh trong những ngành mà người ta tìm thấy bốn yếu tố cơ bản trên khá mạnh. Đây là những khu vực mà chính phủ nên tập trung nỗ lực của họ nhằm để thúc đẩy lợi thế cạnh tranh của quốc gia.
2.1.1.2. Năng lực cạnh tranh của một ngành sản xuất và của doanh nghiệp Một trong các yếu tố trọng tâm chúng ta quan tâm là giải thích vì sao các công ty trong một nước lại có thể cạnh tranh một cánh thành công với các công ty nước ngoài trong cùng một ngành sản xuất. Hay ngành công nghiệp của nước này lại thành công hơn so với nước khác khi tham gia trên thị trường quốc tế. Năng lực cạnh tranh của một ngành chịu ảnh hưởng của sự cộng tác và phối hợp giữa các doanh nghiệp trong ngành đó.
Để DOWNLOAD vui lòng đọc hướng dẫn tại: https://lop12n.forum-viet.com/t842-topic#1947 |
|