Mr.Phieudu236 Administrator
Bài viết : 1101 Điểm : 2664 Voted : 164 Gia nhập : 22/02/2011 Age : 34 Đến từ : C:\WINDOWS\System32 Thành tích :
| Tiêu đề: LuẬn vĂn thẠc sỸ: Nghiên cỨu sỰ di chuyỂn cỦa lĐnt ĐẾn làm viỆc tẠi thành phỐ bẮc giang, tỈnh bẮc giang Sun Jun 19, 2011 4:27 pm | |
| Luận văn dài 111 trang: 1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một nước nông nghiệp, tỷ trọng lao động nông nghiệp chiếm hơn 70% lực lượng lao động của cả nước trong đó thường xuyên có khoảng 30% lao động thiếu việc làm. Việc làm của lao động nông nghiệp nông thôn phụ thuộc chủ yếu vào đất đai và mùa vụ canh tác. Hàng năm với 2 mùa vụ sản xuất chính thì LĐNT lại nảy sinh nỗi lo thất nghiệp. Hơn thế nữa, việc đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn và tiến trình hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới thì việc xây dựng các KCN, khu chế xuất, khu đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng… nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển là một thực tế. Do vậy diện tích đất canh tác của nông nghiệp nông thôn bị thu hẹp do thu hồi để phục vụ các mục đích trên làm cho LĐNT lại càng thiếu việc làm. Cùng với các lý do trên là khoảng cách về thu nhập giữa thành thị và nông thôn hiện nay vẫn còn khá cao. Thực tế đó đã dẫn đến tình trạng có sự di chuyển lao động từ khu vực nông thôn đến thành thị để tìm việc làm, kiếm thu nhập trong thời gian vừa qua. Từ năm 1997 sau khi tách tỉnh đến nay thành phố Bắc Giang tập trung tiến hành thực hiện công cuộc CNH, HĐH nên đã tạo ra nhu cầu lớn về nguồn nhân lực, thêm vào đó thu nhập thấp, điều kiện sống khó khăn, sự khan hiếm ngành nghề phi nông nghiệp có thu nhập cao đã và đang thúc đẩy LĐNT ra thành phố tìm kiếm việc làm. Tính đến 2004, theo thống kê thành phố Bắc Giang hiện có khoảng 126.000 người đang sinh sống và làm việc. Trong những năm gần đây, gắn với sự phát triển mạnh mẽ của thành phố Bắc Giang là những dòng LĐNT di chuyển vào thành phố ngày càng nhiều, năm sau cao hơn năm trước. Theo ước tính, năm 2006 có trên 1.000 LĐNT di chuyển vào thành phố Bắc Giang làm việc và tìm kiếm việc làm. Cho đến nay số lượng LĐNT di chuyển đến thành phố Bắc Giang có xu hướng tăng lên rất nhiều. Sự di chuyển của LĐNT đến thành phố Bắc Giang tạo được nguồn lực lao động dồi dào tham gia vào các công việc tại các cơ quan, nhà máy, các cơ sở sản xuất kinh doanh, các khu - cụm công nghiệp… tạo điều kiện cho thành phố Bắc Giang phát triển kinh tế. Tuy nhiên, thực tế còn tồn tại những vấn đề bức xúc về giải quyết của LĐNT di chuyển đến thành phố làm việc. Thứ nhất, việc làm và thu nhập của LĐNT di chuyển đến thành phố Bắc Giang không ổn định. Hầu hết LĐNT di chuyển đến thành phố Bắc Giang là lao động tự do nên khả năng tìm kiếm việc làm và làm việc rất bấp bênh, nặng nhọc, nguy hiểm, nhiều rủi ro song thu nhập không cao. Thứ hai, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh Bắc giang lần thứ XVI và Đại hội Đảng bộ thành phố Bắc Giang lần thứ XIX nhiệm kỳ 2006 – 2015 đã đưa ra mục tiêu phấn đấu phát triển Thành phố Bắc Giang trở thành một thành phố sinh thái, hiện đại, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội của Tỉnh Bắc Giang cùng với đó là các chương trình, dự án, đề án quy hoạch tổng thể và chi tiết phát triển KT - XH cũng như quy hoạch phát triển các ngành có liên quan đến thành phố Bắc Giang. Cùng với mục tiêu đó để thực hiện được Nghị Quyết thành phố Bắc Giang đã và đang tạo môi trường thuận lợi, chính sách thu hút đầu tư, tăng cường xúc tiến thương mại, cải cách thủ tục hành chính theo hướng thông thoáng, rút ngắn thời gian tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào thành phố Bắc Giang. Với hướng đó sẽ tiếp tục tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động trong tỉnh trong đó có LĐNT. Bên cạnh đó do xu thế phát triển các khu - cụm công nghiệp, khu dân cư trên địa bàn thành phố Bắc Giang cũng như một số huyện lân cận thành phố và các huyện có vị trí địa lý thuận lợi nên dẫn đến tình trạng thu hẹp đất sản xuất nông nghiệp, trong khi công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho người dân bị thu hồi đất chưa được chú trọng dẫn đến tình trạng một bộ phận người nông dân không có khả năng tìm cho mình công việc mới. Thứ ba, sự di chuyển của LĐNT đến thành phố Bắc Giang trong thời gian vừa qua đã làm nảy sinh hàng loạt các vấn đề xã hội như chỗ ở không đảm bảo được điều kiện sống, dịch vụ xã hội bị quá tải, môi trường đô thị bị ô nhiễm, lối sống bị ảnh hưởng …đối với chính bản thân người lao động di chuyển và cả lao động thành phố. Những vấn đề đó đòi hỏi việc nghiên cứu để tìm ra giải pháp giúp LĐNT Bắc Giang có việc làm ổn định, tăng thu nhập cho lao động là một yêu cầu cần thiết hiện nay. Nghiên cứu này cũng góp phần vào thực hiện mục tiêu của tỉnh Bắc Giang đó là giảm tỷ lệ thất nghiệp cho LĐNT. Trong khuôn khổ nghiên cứu này tôi chỉ xin đề cập đến vấn đề kinh tế của lao động di chuyển là thực trạng LĐNT di chuyển đến làm việc tại thành phố Bắc Giang và các nhân tố ảnh hưởng đến sự di chuyển của LĐNT. Xuất phát từ thực tế đó tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu sự di chuyển của LĐNT đến làm việc tại thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang”. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài 1.2.1. Mục tiêu chung Đánh giá thực trạng lao động di chuyển từ nông thôn ra thành thị làm việc trong thời gian vừa qua, đề xuất giải pháp chủ yếu tạo việc làm cho LĐNT ổn định đời sống và thu nhập. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể 1. Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về sự di chuyển LĐNT đến làm việc tại các khu vực thành thị. 2. Nghiên cứu thực trạng của sự di chuyển của LĐNT đến làm việc tại thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. 3. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự di chuyển của LĐNT đến làm việc tại thành phố Bắc Giang. 4. Đề xuất các giải pháp chủ yếu tạo thêm việc làm cho LĐNT và ổn định đời sống và thu nhập cho LĐNT tại Bắc Giang. * Câu hỏi nghiên cứu - Những lý luận nào làm rõ sự di chuyển của LĐNT đến làm việc tại thành thị? - Thực trạng của sự di chuyển LĐNT đến làm việc tại địa bàn nghiên cứu hiện nay như thế nào? - Những nguyên nhân nào dẫn đến LĐNT phải di chuyển đến làm việc tại thành phố Bắc Giang? - Giải pháp chủ yếu nào có thể giúp LĐNT có cuộc sống và thu nhập ổn định cũng như góp phần phát triển nông thôn Bắc Giang? 1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu - LĐNT đang làm các ngành, nghề tại thành phố Bắc Giang. - Các yếu tố tác động đến tình hình di chuyển của LĐNT, các nguyên nhân “đẩy”, “kéo” LĐNT di chuyển đến làm việc tại thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu 1.3.2.1. Nội dung nghiên cứu Nghiên cứu sự di chuyển của LĐNT đến thành thị, làm rõ nguyên nhân xu hướng tác động đến sự di chuyển đó. Do thời gian và nguồn lực nên đề tài chỉ xin đề cập đến vấn đề kinh tế và các nhân tố tác động đến sự di chuyển của LĐNT đến thành phố Bắc Giang làm việc. 1.3.2.2. Phạm vi về không gian nghiên cứu Thành phố Bắc Giang hiện có 7 phường và 4 xã trực thuộc. Do điều kiện về nguồn lực và thời gian có hạn nên chúng tôi chọn 3 phường để nghiên cứu trong đó phường Ngô Quyền và phường Trần Nguyên Hãn là các phường có tốc độ đô thị hoá nhanh; phường Trần Phú là phường đã hình thành và ổn định tập trung đông dân đã tạo ra các loại thị trường. 1.3.2.3.Phạm vi về thời gian nghiên cứu Đề tài dự kiến thu thập số liệu thứ cấp trong khoảng thời gian 2006- 2008, số liệu khảo sát tháng 5 năm 2009.
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÌNH HÌNH DI CHUYỂN LAO ĐỘNG TỪ NÔNG THÔN RA THÀNH THỊ 2.1. Cơ sở lý luận về sự di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị 2.1.1.Các khái niệm cơ bản * Lao động, số lượng lao động, chất lượng lao động Có nhiều quan điểm khác nhau về lao động. Mác cho rằng lao động trước hết là một quá trình trong đó với sức lao động của mình, con người làm trung gian và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ với giới tự nhiên. [16] Theo Savchenko lao động là hoạt động có mục đích của con người, bất cứ làm việc gì con người cũng phải tiêu hao một năng lượng nhất định. Tuy nhiên chỉ tiêu hao năng lượng có mục đích mới được gọi là lao động.[5] Luật lao động được quốc hội khoá IX thông qua ngày 23/6/1994 ghi rõ: Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội .[10] Nguồn lao động là bộ phận dân số trong quy định thực tế tham gia lao động và những người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm. Khi xem xét, đánh giá nguồn lao động thường dùng hai chỉ tiêu: - Số lượng lao động: Số lượng lao động là toàn bộ nghững người trong độ tuổi lao động quy định (nam từ 15-60 tuổi, nữ từ 15-55 tuổi)[10] có khả năng tham gia lao động. Tuy nhiên, do đặc thù của sản xuất nông nghiệp, những người không nằm trong độ tuổi lao động nhưng vẫn có khả năng tham gia lao động thì vẫn được coi là bộ phận của nguồn lao động nhưng do khả năng lao động của họ hạn chế nên họ được coi là lao động phụ. - Chất lượng lao động: Chất lượng lao động chính là sức lao động của bản thân người lao động, chất lượng lao động thể hiện ở sức khỏe, trình độ văn hoá, nhận thức hiểu biết về khoa học kỹ thuật và trình độ kinh tế tổ chức.[10] * Lực lượng lao động Có nhiều quan niệm khác nhau về lực lượng lao động. Theo quan niệm của tổ chức Lao động quốc tế (ILO)[18] thì lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định, thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp. Các nước thành viên của tổ chức này đều thống nhất với quan niệm này. Giữa các nước chỉ có sự khác nhau về độ tuổi quy định. Gần đây, nhiều nước đã lấy tuổi tối thiểu là 15, còn độ tuổi tối đa có sự khác nhau tuỳ theo tình hình phát triển KT - XH của mỗi nước. Các trị số tối đa về tuổi thường trùng với tuổi về hưu. Ở Australia không quy định giới hạn tuổi tối đa. Theo Tổng cục Thống kê (1995), lực lượng lao động là những người từ 15 tuổi trở lên có việc làm và không có việc làm.
Để DOWNLOAD vui lòng đọc hướng dẫn tại: https://lop12n.forum-viet.com/t842-topic#1947 |
|