Mr.Phieudu236 Administrator
Bài viết : 1101 Điểm : 2664 Voted : 164 Gia nhập : 22/02/2011 Age : 34 Đến từ : C:\WINDOWS\System32 Thành tích :
| Tiêu đề: LuẬn vĂn thẠc sỸ:Nghiên cứu rủi ro về sử dụng tiền đền bù và việc làm của hộ nông dân do bị thu hồi đất giao cho Khu công nghiệp Phố Nối B – Hưng Yên Tue Jun 21, 2011 11:32 am | |
|
Luận văn dài 144 trang: PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1.1. Sự cần thiết của đề tài Ổn định đời sống cho người dân nông thôn là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Nghiên cứu về vấn đề này đã có nhiều đề tài và nhiều hướng nghiên cứu khác nhau. Đề tài nghiên cứu của chúng tôi không nằm ngoài chủ trương trên nhưng hướng tiếp cận của đề tài là những khó khăn, rủi ro xảy ra đối với hộ nông dân. Thực tế cho thấy, rủi ro có thể xẩy ra đối với mọi người, mọi gia đình. Nông dân là những người sống dựa chủ yếu vào nông nghiệp, điều kiện sống khó khăn nên rủi ro xảy ra với đối với họ thường nghiêm trọng và nhiều hơn. Đối với nhóm hộ bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp (phục vụ cho chủ trương Công nghiệp hóa, Hiện đại hoá đất nước) bị giảm một phần hoặc toàn bộ đất nông nghiệp, đứng trước nguy cơ phải thay đổi ngành nghề truyền thống, đối mặt với hàng loạt vấn đề về thay đổi môi trường sống,… thì rủi ro họ gặp phải sẽ phức tạp hơn. Những con số sau phần nào nói lên điều đó: khoảng 2,5 triệu dân bị ảnh hưởng bởi việc thu hồi đất, 70% tiền đền bù sử dụng không có hiệu quả, chỉ có hơn 29% người dân có đời sống tốt hơn trước khi nhận tiền đền bù. Chính vì vậy, nhóm hộ này cần được quan tâm. Hưng Yên có nhiều khu công nghiệp(KCN) đã và đang mọc lên, là tỉnh có số hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp khá nhiều(theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công bố ngày 14/7/2007 thì Hưng Yên có 31.033 hộ bị thu hồi đất, đứng thứ 4 cả nước sau Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh và Bắc Ninh). KCN Phố Nối B là khu công nghiệp trọng điểm của tỉnh Hưng Yên, với diện tích rộng, số hộ bị thu hồi đất nhiều,… nên hộ dân bị thu hồi đất bị ảnh hưởng rất lớn và cần được nghiên cứu để giúp họ hạn chế khó khăn. Vấn đề lớn đặt ra đối với hộ bị mất đất đất là sử dung tiền đền bù và việc làm sau khi mất đất, vì vậy cần phải nghiên cứu vấn đề này. Nhằm tìm hiểu về rủi ro sử dụng tiền đền bù và rủi ro việc làm của hộ nông dân bị mất đất giao cho KCN. Chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “ Nghiên cứu rủi ro về sử dụng tiền đền bù và việc làm của hộ nông dân do bị thu hồi đất giao cho Khu công nghiệp Phố Nối B – Hưng Yên”. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1. Mục tiêu chung Qua nghiên cứu của đề tài nhằm đánh giá thực trạng rủi ro sử dụng tiền đền bù và việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho KCN. Từ đó, đề xuất các giải pháp hạn chế những rủi ro này. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể Để đạt được mục tiêu chung, đề tài tập trung giải quyết một số mục tiêu cụ thể sau: - Hệ thống được cơ sở lý luận về rủi ro sử dụng tiền đề bù và việc làm của hộ nông dân do bị thu hồi đất giao cho KCN. - Đánh giá được thực trạng rủi ro sử dụng tiền đền bù và việc làm của hộ nông dân do bị thu hồi đất giao cho KCN Phố Nối B – Hưng Yên. - Đề xuất một số giải pháp giảm thiểu rủi ro sử dụng tiền đền bù và việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho KCN Phố Nối – Hưng Yên.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho KCN Phố Nối B – Hưng Yên. Tuy nhiên, để có những nhận định khách quan, đề tài có nghiên cứu những rủi ro của những hộ nông dân không bị thu hồi đất, nhằm làm cơ sở so sánh. 1.3.2. Phạm vi nghiên cứu - Địa điểm nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu chủ yếu ở những xã của tỉnh Hưng Yên có KCN Phố Nối B nằm trên. Tuy nhiên, để có cái nhìn tổng quát hơn, đề tài có quan sát những nơi khác có KCN. - Thời gian nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu rủi ro của những hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho KCN trong những năm gần đây và đặt trọng tâm chủ yếu năm 2007 .
PHẦN 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ RỦI RO SỬ DỤNG TIỀN ĐỀN BÙ VÀ VIỆC LÀM CỦA HỘ NÔNG DÂN BỊ THU HỒI ĐẤT GIAO CHO KHU CÔNG NGHIỆP 2.1. Một số khái niệm 2.1.1. Khái niệm về sự không chắc chắn Sự không chắc chắn là tình trạng không thể gắn xác suất với sự kiên xảy ra. Sự không chắc chắn có thể đem lại cơ hội cho người dân nhưng cũng có thể đem lại khó khăn cho họ. Đối với hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho KCN thì ngoài việc gặp những sự không chắc chắn thông thường, họ còn gặp phải một số dạng không chắc chắn sau: - Không chắc chắn trong việc làm: sau khi bị “mất đất” họ sẽ phải tìm cách sinh sống, một trong những cách phổ biến đó là vào các KCN để làm việc. Tuy nhiên, họ phải đối mặt với vấn đề, sẽ có việc làm nếu như họ thích nghi tốt được với cuộc sống công nghiệp, với cách làm việc công nghiệp vốn khác xa với cách làm nông nghiệp truyền thốngcủa họ hoặc sẽ là thất nghiệp nếu như họ không thích nghi được. Như vậy, sau khi bị “mất đất” họ đứng trước cơ hội việc làm mới hoặc thất nghiệp. Đây chính là sự không chắc chắn trong việc làm của hộ nông dân bị thu hồi đất. - Không chắc chắn trong tiết kiệm: sau khi bị thu hồi đất, họ nhận được một khoản tiền đền bù. Khoản tiền này, có hộ đã tìm cách tiết kiệm (gửi ngân hàng, cho vay, mua vàng hoặc tiền tệ mạnh,…) như vậy họ phải đối mặt với vấn đề lạm phát. Có thể đồng tiền của họ sẽ “tăng giá” nếu như không hoặc xảy ra lạm phát ở mức thấp, nhưng cũng có thể đồng tiền đó của họ bị “giảm giá” nếu như xảy ra mức lạm phát cao. Hoặc họ phải đối mặt với việc lên xuống hàng ngày của các đồng tiền mạnh, vàng,… Như vậy, khi tiết kiệm tiền họ đứng trước cơ hội sẽ có thêm tiền hoặc sẽ bị “mất tiền”. Đây chính là sự không chắc chắn trong tiết kiệm của hộ nông dân bị thu hồi đất. - Không chắc chắn trong đầu tư: đây là sự không chắc chắn phổ biến nhất đối với hộ dân bị mất đất. Sau khi thu bị thu hồi đất, họ thiếu phương tư liệu sản xuất, vì vậy họ phải tìm cách đầu tư sang lĩnh vực khác. Do sự thiếu hiểu biết các thông tin về lĩnh vực đầu tư mới, cộng với việc xa lạ với những môi trường không phải là nông nghiệp, hoặc môi trường không quen thuộc với họ nên họ đứng trước điều không chắc chắn về thành công. Họ có thể thành công trong lĩnh vực mới, nếu được định hướng và trợ giúp từ phía cộng đồng, nhưng họ cũng dễ bị thất bại nếu như thiếu sự quan tâm trợ giúp. Đây chính là sự không chắc chắn trong đầu tư của hộ. 2.1.2. Khái niệm rủi ro Ngày nay có rất nhiều khái niệm về rủi ro do những trường phái và tác giả khác nhau đưa ra. Nhưng nhìn chung, chúng ta có thể chia làm hai trường phái lớn sau: Trường phái truyền thống: có một số định nghĩa như sau: - Rủi ro là điều không lành, không tốt, bất ngờ xảy đến. - Rủi ro là sự không may. - Rủi ro là sự bất trắc, gây ra mất mát, hư hại. - Rủi ro là yếu tố liên quan đến nguy hiểm, sự khó khăn, hoặc điều không chắc chắn,… - Rủi ro là sự tổn thất về tài sản hay là sự giảm sút lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận dự kiến. Theo cách định nghĩa trên thì: rủi ro là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố khác liên quan đến nguy hiểm, khó khăn, hoặc điều không chắc chắn có thể xảy ra cho con người.[15] Trường phái trung hòa: cómột số khái niệm của trường phái như sau: - Rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được - Rủi ro là sự bất trắc có liên quan đến việc xuất hiện những biến không mong đợi - Rủi ro là những ngẫu nhiên có thể đo lường bằng xác suất - Rủi ro là sự biến động tiềm ẩn những kết quả. Rủi ro có thể xuất hiện trong hầu hết các hoạt động của con người. Khi có rủi ro người ta không dự đoán được chính xác kết quả. Sự hiện diện của rủi ro gây lên sự bất định. Nguy cơ dẫn đến rủi ro phát sinh bất cứ khi nào mọi hoạt động dẫn đến khả năng được hoặc mất không thể đoán trước. Theo các định nghĩa của trường phái trung hòa thì: rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được.[15] Phân biệt giữa rủi ro và sự không chắc chắn Từ các khái niệm về rủi ro và sự không chắc chắn ta thấy: Rủi ro có thể đề cập tới nhiều kết quả, mỗi kết quả lại có khả năng xảy ra khác nhau và có thể tính toán được khả năng xảy ra của một kết quả là bao nhiêu. Tức là rủi ro có thể định lượng được. Không chắc chắn cũng đề cập tới nhiều kết quả và không biết được rằng khả năng xảy ra của một kết quả là bao nhiêu. Như vây, sự khác nhau lớn nhất giữa rủi do và không chắc chắn chính là việc có xác định được khả năng xảy ra kết quả hay không. 2.1.3. Khái niệm rủi ro sử dụng tiền đền bù và rủi ro việc làm của hộ nông dân bị mất đất cho khu công nghiệp 2.1.3.1. Khái niệm rủi ro của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiêp Như chúng ta đã biết: rủi ro là sự thiệt hại mất mát xảy ra đối với con người. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đưa ra khái niệm về rủi ro của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho KCN như sau: rủi ro của hộ nông dân do bị thu hồi đất giao cho KCN là những mất mát, thiệt hại do việc mất đất đem đến cho họ, những thiệt hại đó có thể đo lường được. Để đo lường được rủi ro của hộ nông dân do bị mất đât thì trước tiên cần phải được ghi chép một cách tỷ mỉ những sự kiện xảy ra đối với người dân, sau đó chắt lọc, phân loại ra những rủi ro nào là do việc mất đất gây nên. Trong đề tài này, chúng tôi đi sâu sâu nghiên cứu rủi ro trong sử dụng tiền đền bù và rủi ro việc làm của hộ nông dân khi họ bị mất đất. 2.1.3.2. Khái niệm rủi ro sử dụng tiền đền bù của hộ nông dân bị thu hồi đất giao cho khu công nghiệp Khi bị thu hồi đất, hộ nông dân sẽ nhận được một khoản tiền đền bù. Khoản tiền này có thể coi là tư liệu sản xuất thay thế cho ruộng đất mà hộ bị mất. Vì vậy, hộ phải tìm cách để sử dụng hiệu quả, đảm bảo cho cuộc sống của hộ sao cho mức đảm bảo ít nhất cũng phải bằng mức đảm bảo của số lượng đất mà hộ bị mất. Tất cả mọi cách thức sử dụng mà không đảm bảo được điều đó, trong đề tài này chúng tôi coi là rủi ro trong sử dụng tiền đền bù của hộ. Do đó, với quan niệm như trên, chúng tôi đưa ra khái niệm sau: rủi ro sử dụng tiền đền bù của hộ là sự mất mát, thiệt hại số tiền doanh nghiệp đền bù cho hộ, do hộ sử dụng vào mục đích nào đó. Sự thiệt hại đó có thể lượng hóa được.
Để DOWNLOAD vui lòng đọc hướng dẫn tại: https://lop12n.forum-viet.com/t842-topic#1947 |
|