Mr.Phieudu236 Administrator
Bài viết : 1101 Điểm : 2664 Voted : 164 Gia nhập : 22/02/2011 Age : 34 Đến từ : C:\WINDOWS\System32 Thành tích :
| Tiêu đề: LuẬn vĂn thẠc sỸ: MỘt sỐ giẢi pháp chuyỂn dỊch cƠ cẤu lao ĐỘng theo ngành trên ĐỊa bàn tỈnh bẮc ninh 2015 - 2020 Sun Jun 19, 2011 4:35 pm | |
| Luận văn dài 115 trang: Phần 1 MỞ ĐẦU 1.1 Tính cấp thiết của đề tài luận văn Mục tiêu của tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020, tỷ trọng trong GDP của ngành nông nghiệp là 5,6%; ngành công nghiệp là 59,8%; ngành dịch vụ là 34,6% [27]. Nhưng theo số liệu thống kê, năm 2007 tỷ trọng trong GDP của ngành nông nghiệp là 18,65%; ngành công nghiệp là 51,01%; ngành dịch vụ là 30,34% [3]. Thực tế trên đòi hỏi tỉnh Bắc Ninh phải có những bước đột phá trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là chuyển dịch mạnh cơ cấu lao động theo ngành để đáp ứng yêu cầu của chuyển dịch cơ cấu ngành. Tuy nhiên, năm 2007 tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp là 60,52 %; ngành công nghiệp là 23,80 %; ngành dịch vụ là 15,68% [3]. Với cơ cấu lao động theo ngành còn ở trình độ thấp và lạc hậu, vấn đề có tính cấp thiết được đặt ra là phải có giải pháp đúng đắn nhằm đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành theo hướng hợp lý đáp ứng yêu cầu mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành đến 2020. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài nghiên cứu: “Một số giải pháp chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh 2015 - 2020" 1.2 Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1 Mục tiêu chung Trên cơ sở nghiên cứu về mặt lý luận kết hợp với việc phân tích thực trạng và xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành từ đó đánh giá quá trình chuyển dịch, rút ra kết luận làm cơ sở đề ra các biện pháp có hiệu quả thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành. 1.2.2 Mục tiêu cụ thể - Góp phần làm rõ các khái niệm về cơ cấu lao động theo ngành, chuyển dịch cơ cấu lao động ngành; mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành và chuyển dịch cơ cấu ngành. Đồng thời chỉ ra xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trong giai đoạn hiện nay. - Nghiên cứu, đánh giá thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 1997 đến năm 2007. - Chỉ ra nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh đến năm 2020. 1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Luận văn đi sâu nghiên cứu các vấn đề cơ cấu lao động theo ngành, chuyển dịch cơ cấu lao động trong mối quan hệ với cơ cấu ngành và chuyển dịch cơ cấu ngành. Phạm vi nghiên cứu: Trên cơ sở mốc thời gian tái lập tỉnh (1997) và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh đến năm 2020, luận văn tập trung đi sâu nghiên cứu vấn đề chuyển dịch cơ cấu theo ngành và từng nhóm ngành trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 1997 đến năm 2020. 1.4 Khái quát kết cấu của luận văn Luận văn gồm 5 phần: Phần 1: Mở đầu Phần 2: Cơ sở lý luận Phần 3: Đặc điểm địa bàn và phương pháp nghiên cứu Phần 4: Kết quả nghiên cứu Phần 5: Kết luận và Kiến nghị Phần 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG THEO NGÀNH 2.1 Cơ sở lý luận về cơ cấu lao động theo ngành kinh tế 2.1.1 Cơ cấu ngành kinh tế 2.1.1.1 Khái niệm cơ cấu ngành kinh tế Cơ cấu của nền kinh tế quốc dân là hình thức cấu tạo bên trong của nền kinh tế, là tổng thể các quan hệ chủ yếu về số lượng và chất lượng tương đối ổn định của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong một hệ thống tái sản xuất xã hội trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Cơ cấu của nền kinh tế được nghiên cứu theo nhiều phương diện khác nhau, trong đó phổ biến hơn cả là theo phương diện ngành kinh tế. Cơ cấu ngành kinh tế được hiểu là sự tương quan giữa các ngành trong tổng thể nền kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số và chất lượng giữa các ngành. Các mối quan hệ này được hình thành trong những điều kiện kinh tế – xã hội nhất định, luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể. Trong tổng thể nền kinh tế bao gồm nhiều ngành kinh tế khác nhau, số lượng các ngành này không cố định. Sự phát triển của phân công lao động xã hội sẽ làm thay đổi về mặt chất và lượng của các ngành kinh tế. Từ đầu thế kỷ XIX, nhà Kinh tế học Collin Class căn cứ vào tính chất chuyên môn hóa của sản xuất đã chia thành 3 nhóm ngành: Khai thác tài nguyên thiên nhiên (nông nghiệp và khai thác khoáng sản); Công nghiệp chế biến; Sản xuất sản phẩm vô hình. Sau này, Liên hợp quốc căn cứ vào tính chất hoạt động sản xuất đã chuyển hoạt động khai thác khoáng sản sang ngành công nghiệp và gọi sản xuất sản phẩm vô hình là dịch vụ. Thực ra, nguyên tắc phân ngành xuất phát từ tính chất phân công lao động xã hội, Biểu hiện cụ thể qua sự khác nhau về quy trình công nghệ của các ngành trong quá trình tạo ra sản phẩm vật chất và dịch vụ. Với nguyên tắc đó, các ngành kinh tế được phân thành 3 khu vực hay còn gọi là 3 nhóm ngành: Khu vực I bao gồm các ngành nông - lâm - ngư nghiệp; Khu vực II gồm các ngành công nghiệp và xây dựng; Khu vực III bao gồm các ngành dịch vụ [18]. Với sự phân ngành này, cơ cấu ngành được nghiên cứu chủ yếu dưới các góc độ sau: góc độ thu nhập (nghiên cứu cơ cấu ngành theo GDP), góc độ đầu tư (nghiên cứu cơ cấu ngành theo lượng vốn đầu tư), góc độ lao động (nghiên cứu cơ cấu ngành theo lao động). Nền kinh tế được chia thành 3 nhóm ngành lớn, mỗi nhóm ngành này là sự kết hợp của các ngành nhỏ hơn có những đặc điểm tương đối giống nhau và các ngành này đã tạo nên cơ cấu nội bộ ngành. Nhóm ngành nông nghiệp bao gồm các ngành: ngành sản xuất nông nghiệp, ngành lâm nghiệp và ngành thuỷ sản Nhóm ngành công nghiệp xây dựng bao gồm các ngành: ngành công nghiệp khai thác, ngành công nghiệp chế biến, các ngành sản xuất – phân phối điện nước và khí đốt, ngành xây dựng Nhóm ngành dịch vụ bao gồm các ngành: các ngành dịch vụ kinh doanh có tính chất thị trường, dịch vụ sự nghiệp, dịch vụ hành chính công Tương đối giống cơ cấu ngành về mặt bản chất, cơ cấu nội bộ ngành chính là hình thức cấu trúc bên trong của ngành, là các mối quan hệ của các ngành nhỏ về cả số lượng và chất lượng. Nghiên cứu cơ cấu ngành tức là nghiên cứu tổng thể cơ cấu ngành trong mối quan hệ mật thiết với cơ cấu nội bộ từng nhóm ngành. Việc nghiên cứu cơ cấu ngành có ý nghĩa rất quan trọng. Xét trên cả hai khía cạnh tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế thì cơ cấu ngành được xem là một trong những yếu tố quan trọng nhất vì nó phản ánh sự phát triển của khoa học công nghệ, lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội và hợp tác hóa sản xuất. Trạng thái của cơ cấu ngành phản ánh trình độ phát triển nền kinh tế của mỗi quốc gia, đó là tiêu chí để xác định xem nền kinh tế của quốc gia đó là nền kinh tế nông nghiệp, công nghiệp hay hậu công nghiệp. 2.1.1.2 Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và những vấn đề có tính quy luật về xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là quá trình thay đổi của cơ cấu ngành kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp với môi trường và điều kiện phát triển. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế không chỉ là sự thay đổi về số lượng các ngành, tỷ trọng mỗi ngành mà còn là sự thay đổi về vị trí, tính chất mỗi ngành trong mối quan hệ giữa các ngành. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải dựa trên cơ sở cơ cấu hiện có và nội dung của sự chuyển dịch là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu để xây dựng một cơ cấu mới phù hợp hơn [18]. Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một quá trình diễn ra liên tục và gắn liền với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tính chất bền vững của tăng trưởng và phát triển kinh tế phụ thuộc vào khả năng chuyển dịch linh hoạt của cơ cấu ngành kinh tế trong những điều kiện cụ thể. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành gắn liền và phản ánh tính hiệu quả của việc phân bố nguồn lực. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành được coi là hợp lý, tiến bộ khi tỷ trọng giá trị ngành công nghiệp và đặc biệt là ngành dịch vụ ngày càng tăng; tỷ trọng giá trị ngành nông nghiệp ngày càng giảm trong tổng giá trị sản phẩm xã hội. Trong nội bộ ngành công nghiệp, tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến tăng lên, cơ cấu sản xuất thay đổi theo hướng chuyển từ ngành sản xuất các sản phẩm sử dụng nhiều lao động sang ngành sản xuất sản phẩm chứa hàm lượng cao về vốn và khoa học công nghệ. Trong nội bộ ngành nông nghiệp, tỷ trọng giá trị sản lượng ngành chăn nuôi sẽ tăng lên và tỷ trọng giá trị sản lượng của ngành trồng trọt giảm xuống tương ứng. Còn đối với ngành dịch vụ, tỷ trọng giá trị các ngành dịch vụ kinh doanh có tính chất thị trường ngày càng tăng [18]. Xây dựng một cơ cấu ngành kinh tế hợp lý, tiến bộ là yêu cầu khách quan của mỗi quốc gia. Một cơ cấu ngành được coi là hợp lý khi nó đáp ứng được một số điều kiện cơ bản sau: Các ngành kinh tế phát triển mạnh mẽ và đồng bộ, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm dần, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ tăng dần; trình độ kỹ thuật của nền kinh tế phù hợp với xu hướng phát triển khoa học công nghệ; cho phép khai thác tối đa và hiệu quả mọi tiềm năng của quốc gia; thực hiện phân công và hợp tác quốc tế theo xu thế toàn cầu hóa, xây dựng cơ cấu ngành kinh tế thành một “cơ cấu mở”. 2.1.2 Cơ cấu lao động theo ngành Là một hình thức của cơ cấu lao động do đó nghiên cứu cơ cấu lao động là tiền đề quan trọng để nghiên cứu cơ cấu lao động theo ngành. Cơ cấu lao động là phạm trù kinh tế xã hội, phản ánh hình thức cấu tạo bên trong của tổng thể lao động, sự tương quan giữa các bộ phận và mối quan hệ giữa các bộ phận đó. Đặc trưng của cơ cấu lao động là mối quan hệ tỷ lệ về mặt số lượng và chất lượng lao động theo những tiêu chí nhất định [6]. Là một phạm trù kinh tế – xã hội, cơ cấu lao động có những thuộc tính cơ bản, đó là tính khách quan, tính lịch sử và tính xã hội:
Để DOWNLOAD vui lòng đọc hướng dẫn tại: https://lop12n.forum-viet.com/t842-topic#1947 |
|